Tác giả Richard Feloni của Business Insider đã chia sẻ 7 bài học kinh doanh mà ông rút ra sau khi tham gia một khóa học kinh doanh trực tuyến của ngôi trường Harvard nổi tiếng.
1. Trong đấu giá, người chiến thắng cũng có thể là người thua cuộc
Nếu không ai trong buổi đấu giá nắm đầy đủ thông tin về giá trị của món hàng, thì người chiến thắng chỉ đơn giản là người quyết tâm nhất (hoặc lạc quan nhất) khi sẵn sàng trả giá cao hơn những người khác.
Người đưa ra mức giá thấp hơn giá trị của món đồ, hoặc mức giá bằng với giá trị của món đồ đều không thắng đấu giá. Và dĩ nhiên họ cũng không thu được bất kỳ lợi nhuận nào. Điều này có nghĩa là người chiến thắng - tức người trả giá cao hơn 2 trường hợp trên, đã đánh giá giá trị của món đồ cao hơn so với thực tế. Do đó, người này thậm chí còn bị mất tiền (lợi nhuận âm).
2. Gói sản phẩm nên tối đa hóa giá trị chứ không phải gây lãng phí
Chắc hẳn trong cuộc đời, ai cũng từng ít nhất một lần mua trọn bộ một gói sản phẩm, mà trong đó có những thứ bản thân thực sự không cần đến.
Chẳng hạn, bạn thật sự cần sử dụng Microsoft Word, cũng có thể sử dụng cả Power Point, và nghĩ rằng đôi lúc bạn cũng cần phải đúng đến Excel. Dĩ nhiên, mức giá trọn gói sản phẩm ưu đãii hơn nhiều so với việc chỉ mua mỗi Word. Thế nên, bạn bắt đầu cân nhắc việc trả nhiều tiền hơn để mua trọn bộ.
Cái hay của việc kinh doanh gói sản phẩm, là nó tối đa hóa doanh thu cho doanh nghiệp không phải vì nhu cầu thực sự của khách hàng, mà vì sở thích của họ.
Cuối cùng, Microsoft chiến thằng bằng cách tạo ra chính sách phân biệt giá, một chiến lược mà trong đó những hàng hóa giống nhau sẽ được bán với mức giá chênh lệch tại những thị trường khác nhau. Giống như việc bạn sẵn sàng mua bộ sản phẩm gồm khăn giấy (theo nhu cầu của mình) và thêm một vài loại khăn giấy đang khuyến mãi khác, chỉ vì bạn thấy có chương trình ưu đãi.
3. Giá trần và giá sàn có thể chỉ làm phức tạp hóa vấn đề thay vì giải quyết nó
Sau cơn bão Sandy, bang New York đã quyết định ban hành đạo luật “Chống giá cắt cổ” (anti-price gouging law), mục đích là để giữ mức giá nhiên liệu công bằng cho mọi người dân thuộc tất cả các tầng lớp trong khu vực.
Khi nguồn cung khan hiếm trong khi nhu cầu mua hàng lại ngày một tăng cao (do giá bán thấp hơn mức giá cân bằng nơi cung và cầu gặp nhau), New York xảy ra tình trạng thiếu hụt nhiên liệu và người dân phải xếp hàng dài chờ đợi. Và vì không được bán với giá vượt mức "giá trần", các công ty ở những bang khác không đủ động lực để vận chuyển nhiên liệu đến bán cho khách hàng ở New York. Tình trạng khan hiếm lại càng nặng hơn, dẫn tới việc rất nhiều người dân gặp khó khăn vì không mua được xăng dầu, khí đốt để dùng.
Trường hợp giá trần, giá sàn không có tác dụng cũng xảy ra tương tự đối với mức lương tối thiểu. Khi chính quyền quyết định áp mức giá sàn (giá tối thiểu) cho một thị trường lao động có độ co giãn. Khi đó, rất nhiều công nhân chấp nhận làm tăng ca để được trả thêm tiền, dẫn đến tình trạng dư thừa sức lao động và kéo theo tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
4. Chi phí cố định không liên quan tới việc định giá sản phẩm
Những chi phí cố định như tiền thuê nhà hay đầu tư trang thiết bị sẽ không thay đổi khi số lượng sản phẩm thay đổi. Chi phí biến đổi như nguyên vật liệu và bao bì thì có thay đổi theo số lượng sản phẩm.
Chi phí cố định có thể ảnh hưởng đến quyết định gia nhập ngành mới, hay tiếp tục kinh doanh lĩnh vực hiện tại của công ty, nhưng không liên quan đến việc định giá sản phẩm.
Ví dụ: Nếu chủ một quán cà phê bỏ ra 300.000USD để mở quán và sản xuất một cốc cà phê với mức chi phí 2USD, thì bất cứ khoản tiền nào kiếm được khi bán cốc cà phê với giá cao hơn 2USD cũng là lợi nhuận của cô ấy. Và cô ấy cũng có thể tùy ý hạ giá bán xuống tới 2USD để cạnh tranh về giá với các đối thủ khác nếu cần. Con số 300.000USD không phải là yếu tố quyết định giá của cốc cà phê là bao nhiêu.
5. Định luật giới hạn trung tâm giải thích vì sao chúng ta có thể sử dụng mẫu ngẫu nhiên để tìm hiểu về một quần thể
Nếu bạn đang đo lường tác động của một biến số lên một quần thể - ví dụ, đo lường xem khoảng cách từ trung tâm thành phố ảnh hưởng đến giá của một ngôi nhà ngoại ô như thế nào. Thì phân phối của các trung bình của những mẫu đó sẽ được gọi là phân phối chuẩn (tức là nó sẽ có hình dạng của một đường cong chuông). Mức trung bình của đường cong chuông này sẽ cho kết quả trung bình thực sự của quần thể.
Tuy nhiên, trong thực tế, không ai lại tốn nhiều thời gian và nguồn lực để khảo sát một lượng lớn mẫu và ngồi tính toán trung bình. Thay vào đó, với độ tin cậy khoảng 95%, trung bình của mẫu sẽ nằm giữa hai độ lệch chuẩn so với trung bình của quần thể. Nếu không đi sâu vào toán học thì đây là cách chúng ta có thể tự tin xác định phạm vi các giá trị được tính từ một mẫu.
6. Một công ty có thể tự do quyết định cách thức kế toán của mình, chẳng hạn như cách xác định khấu hao tài sản và giá trị tồn kho
Khi một nhà máy đóng chai mua được một máy đóng chai mới, thì công ty sẽ quyết định cách tính giá trị hao mòn của nó – tức là cách xác định khấu hao dựa vào thời gian sử dụng.
Có hai cách chính để lựa chọn là khấu hao nó theo phương pháp đường thẳng (tức mức khấu hao hằng năm sẽ không thay đổi trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của tài sản), và phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh (tức chi phí được ghi nhận trong những năm đầu sẽ nhiều hơn so với những năm sau đó).
Tương tự, khi một công ty sản xuất nước trái cây thay đổi giá của một sản phẩm thì có thể định giá giá trị hàng tồn kho của mình bằng hai phương pháp: Đó là nhập trước – xuất trước (FIFO), tức là những chai nước ép được nhập vào kho lâu nhất sẽ được ghi nhận là xuất đầu tiên; hoặc là Nhập sau – xuất trước (LIFO), tức những hàng hóa nhập kho gần nhất sẽ được xuất ra trước. Cả hai phương pháp này đều không phụ thuộc vào tình hình thực tế diễn ra.
7. Cách dòng tiền lưu thông tiết lộ “sức khỏe” của công ty
Những thông báo định kỳ về dòng tiền hiện có của công ty cho thấy cách mà lượng tiền mặt này dịch chuyển “ra”, “vào” từ những hoạt động như kinh doanh (sản xuất sản phẩm), đầu tư (khoản tiền mặt chủ yếu sẽ liên quan đến những tài sản dài hạn như bất động sản, trang thiết bị), và những hoạt động tài chính (tiền mặt tăng lên liên quan đến việc tăng vốn đầu tư hay chi trả lợi nhuận cho các nhà đầu tư).
Và sau đây là cách giải thích cụ thể hơn:
- Khởi nghiệp: Thông thường dòng tiền trong giai đoạn này sẽ đi ra, tiền “rót” vào việc vận hành, và đầu tư với những biến động lớn trong hoạt động tài chính.
- Sinh lãi (Giai đoạn tăng trưởng): thường có dòng tiền vào từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền ra dành cho hoạt động đầu tư và sự biến động trong các hoạt động tài chính.
- Trưởng thành (Giai đoạn ổn định): Tương tự như giai đoạn tăng trưởng, tuy nhiên lúc này sẽ có một ít dòng tiền ra khỏi công ty dành cho việc đầu tư, thay thế thiết bị đã cũ. Và lượng tiền ra dành cho hoạt động tài chính cũng nhiều hơn (dùng để trả các khoản vay hoặc chi trả cổ tức cho cổ đông).
- Suy thoái: dòng tiền lưu thông ra bên ngoài nhằm hỗ trợ hoạt động vận hành kinh doanh, đồng thời sẽ có thêm dòng tiền chảy vào công ty nhờ những hoạt động đầu tư (ví dụ: bán tháo các tài sản không dùng đến), và dòng vốn lưu thông ra-vào từ những hoạt động tài chính (nhiều khả năng công ty không tìm những khoản vay mới, hay thậm chí gặp khó khăn trong việc trả những khoản vay hiện tại).
(Bài viết được dịch từ Business Insider)